• 0973.344.828 -
  • aloha.edu.vn@gmail.com

Đế quốc Đức: Nguồn gốc tên gọi thực dân và cờ đế chế Đức

Đế quốc Đức là gì? Đế quốc thực dân Đức có đặc điểm thế nào? Các mẫu cờ đế quốc Đức qua các thời kỳ ra sao?

Đức là một trong những quốc gia được giới thiệu gắn liền với lịch sử thế giới mới 2 cuộc chiến tranh thế giới thứ 1 & 2.

Vì vậy cũng có rất nhiều người muốn tìm hiểu và nắm rõ lý do tại sao đế quốc Đức lại ra đời? và lý do đây lại là cường quốc trong thời điểm đó?

Để giải nghĩa chi tiết thì hãy cùng theo dõi nội dung sau của Du học Aloha nhé!

Video tóm tắt nhanh về lịch sử nước Đức

Đế quốc Đức là gì?

Đế quốc Đức (tiếng Đức: Deutsches Reich) (tiếng Anh: German Empire) hay Đế chế thứ hai hay Đệ nhị Đế chế (Zweites Reich) được tuyên bố thiết lập vào ngày 18 tháng 1 năm 1871 sau khi thống nhất nước Đức vài tháng sau đó chấm dứt Chiến tranh Pháp-Phổ. Đây là đỉnh cao của một quá trình quân sự, kinh tế, ngoại giao, chính trị được kết thúc với chiến thắng vẻ vang của Vương quốc Phổ trước Áo sau trận chiến quyết định tại Königgrätz vào năm 1866 và đại thắng của người Phổ trước quân nước Pháp trong trận Sedan vào năm 1870. Các vùng đất riêng rẽ ở Đức đã được thống nhất bằng chính sách “máu và sắt”. Đế quốc Đức ra đời, với lãnh thổ tuân theo chủ trương “Tiểu Đức” do Phổ ủng hộ để loại trừ nước Áo hoặc phần nói tiếng Đức của nó, và người Phổ lãnh đạo Đế quốc: Vua Phổ là Wilhelm I lên ngôi Hoàng đế Đức. Thủ tướng Otto von Bismarck – người lập công đầu trong công cuộc nhất thống quốc gia, trở thành vị đại anh hùng dân tộc.

Sự ra đời của Đế quốc Đức là một thay đổi lớn lao trong cán cân quyền lực châu Âu. Nhà nước ấy là một nền quân chủ lập hiến bán nghị viện có tổ chức liên bang, với 41 triệu dân cho đến năm 1918 thì dân số tăng lên đến 65 triệu người với diện tích là 540.857,54 km2 (không tính các thuộc địa của Đức).

Trong suốt quãng thời gian tồn tại của mình, Đế quốc Đức là quốc gia hàng đầu của châu Âu: về quân sự và kinh tế, Đức vượt trội. Khoa học, công nghệ, giáo dục và hành chính Đức trở thành mẫu mực. Nước Đức cũng nắm vai trò quyết định trong quan hệ quốc tế, và chấm dứt vào năm 1918 sau khi bại trận trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất dẫn tới thỏa hiệp năm 1919.

Đế quốc thực dân Đức là gì?

Đế quốc thực dân Đức hay Đế quốc thuộc địa Đức (tiếng Đức: Deutsches Kolonialreich) là tập hợp các vùng thuộc địa, xứ bảo hộ dưới quyền lực của Đế quốc Đức. Thủ tướng của thời kỳ này là Otto von Bismarck. Các nỗ lực thực dân ngắn ngủi của các quốc gia Đức riêng rẽ đã xảy ra trong nhiều thế kỷ trước, nhưng những nỗ lực thuộc địa quan trọng chỉ bắt đầu vào năm 1884 với Cuộc tranh giành châu Phi. Đức quản lý hệ thống thuộc địa rộng thứ ba thế giới sau Anh và Pháp vào thời điểm đó.

Đức mất quyền kiểm soát thuộc địa khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bắt đầu vào năm 1914, các thuộc địa của Đức bị quân đội kẻ thù xâm chiếm trong những tuần đầu tiên của cuộc chiến.

Tuy nhiên, một số đơn vị quân sự được tổ chức chiến đấu trong một thời gian dài: Đức Tây Phi chỉ đầu hàng vào năm 1915, Kamerun năm 1916 và Đông Phi của Đức chỉ đầu hàng vào năm 1918, thời điểm cuối cuộc chiến.

Đế quốc thuộc địa của Đức đã chính thức bị tịch thu trong Hiệp ước Versailles sau khi Đức thất bại trong chiến tranh. Các lãnh thổ thuộc địa, bảo hộ khác nhau trở thành Lãnh thổ ủy trị của Hội Quốc Liên dưới sự giám sát (nhưng không phải quyền sở hữu) của các cường quốc chiến thắng.

Cờ đế quốc Đức

Sau đây Du học Aloha sẽ tổng hợp các mẫu cờ nước đức qua các thời kỳ:

Quốc kỳ Đức hiện nay

Cờ nước Đức
Quốc kỳ Đức hiện nay

Cờ phát xít Đức

Cờ phát xít Đức
Cờ phát xít Đức

Cờ đế quốc Đức

Cờ đế quốc Đức
Cờ đế quốc Đức

Cờ đế quốc thuộc địa Đức

Cờ đế quốc thuộc địa Đức
Cờ đế quốc thuộc địa Đức

Đế quốc Đức có nguồn gốc thế nào?

Nguồn gốc của Đế quốc Đức là vương quốc Phổ, là vương quốc khởi sinh từ Tuyển hầu xứ Brandenburg (tiếng Đức: Kurfürstentum Brandenburg) từ thế kỷ 11. Dưới quyền gia tộc nhà Hohenzollern trị vì xứ Brandenburg, các dân tộc Sla-vơ, chủ yếu là Ba Lan, dần dần bị đẩy lui về dọc bờ Biển Baltic. Những người kháng cự sẽ bị tiêu diệt hoặc trở thành nông nô.

Điểm yếu của Phổ là về địa lý. Do kết quả của các cuộc hôn nhân và thừa kế trong quá khứ, lãnh thổ của vương quốc bị tách rời nhau khắp vùng đồng bằng Bắc Âu. Lãnh thổ xa nhất về phía tây là Công quốc Cleves, nằm dọc bờ Sông Rhine; xa nhất về phía đông là Công quốc Đông Phổ. Brandenburg không có đường đi ra biển, thiếu tài nguyên thiên nhiên, và đất không được màu mỡ. Lãnh thổ vương quốc luôn bị quân Tin lành và Cơ đốc tàn phá và giết chóc.

Tuy nhiên, năm 1640 công quốc đã sản sinh một nhà lãnh đạo kiệt xuất: Tuyển hầu (Kurfürst) Friedrich Wilhelm I xứ Brandenburg. Dù lãnh thổ bị phân tán và nghèo khó, ông đã mơ đến một vương quốc độc lập, đoàn kết và hùng mạnh. Ông tạo dựng một guồng máy đưa Phổ lên hàng đầu ở châu Âu. Ông tổ chức một chính phủ tập trung có năng lực, có kỷ luật, thêm hệ thống bưu điện và biểu thuế lũy tiến. Đến năm 1688, sau 48 năm trị vì, ông đã gây dựng quân đội chính quy với 30.000 người trong tổng số dân chỉ có một triệu.

Các hậu duệ của ông gây dựng tiếp trên nền móng ông đã đặt ra. Đến năm 1701, uy thế của Phổ đã lên đến mức Tuyển hầu Friedrich III xứ Brandenburg, con của Friedrich Wilhelm I, không còn hài lòng với tước hiệu Tuyển hầu. Ông muốn trở thành vua.

Người có quyền ban tước hiệu này là Hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh đóng đô ở Viên thì lưỡng lự: nếu phong Friedrich làm vua thì các Tuyển hầu của Hannover, Bayern và Sachsen cũng sẽ muốn làm vua. Nhưng Hoàng đế không có chọn lựa khác, cuối cùng phải ưng thuận. Ngày 18 tháng 1 năm 1701, Friedrich III tự đội lên đầu chiếc vương miện để trở thành quốc vương Friedrich I của Phổ.

Năm 1713, Friedrich I qua đời, và con trai là Friedrich Wilhelm I lên kế vị. Có tính cương nghị còn hơn cả người cha và ông nội, vị vua này đặt ra mục tiêu của Phổ là trở nên một cường quốc quân sự. Mọi việc đều theo chiều hướng này: nền kinh tế đủ mạnh để nuôi sống một đội quân hùng hậu, bộ máy hành chính có hiệu năng để tận thu thuế hầu trả đủ lương cho binh sĩ, một hệ thống giáo dục xuất chúng nhằm tạo ra binh sĩ có trình độ.

Trái ngược với nước Pháp lo đổ tiền của vào các công trình kiến trúc xa hoa phung phí, Phổ lo xây dựng chỉ với mục đích quân sự: nhà máy làm thuốc súng, lò đúc đại bác, kho vũ khí, doanh trại quân đội. Nhà vua còn đối xử khắt khe với con của ông là Thái tử Friedrich.

Vào năm 1740, Friedrich Wilhelm I qua đời, và Thái tử Friedrich lên nối ngôi – tức là Friedrich II. Chỉ trong vòng vài tháng, vị vua trẻ đã điều khiển đoàn quân – mà ông nội và người cha đã dày công gây dựng – đi đánh trận.

Trong sự ngỡ ngàng của châu Âu, ông xâm chiếm tỉnh Silesia, thậm chí gây hấn với Đế quốc La Mã Thần thánh của dòng họ Habsburg. Đấy là chiến dịch đầu tiên trong những chiến dịch xuất chúng khiến cho ông được tôn vinh là Friedrich Đại đế. Người đương thời mến mộ ông và nhà sử học say mê ông.

Vào thời gian này, Phổ đã vươn lên thành một cường quốc quân sự ở châu Âu, nhưng vẫn thiếu tiềm lực cốt lõi. Đất khô cằn, không có khoáng sản; dân số ít ỏi. Không có thị trấn lớn, không có công nghiệp, nền văn hóa thì nghèo nàn. Thậm chí giới quý tộc cũng nghèo túng, và nông dân không có đất canh tác, sống cuộc đời vô cùng cực khổ.

Tuy thế, với ý chí sắt đá và thiên tài tổ chức, Vương triều Hohenzollern nỗ lực gây dựng một vương quốc quân sự khắc khổ có quân đội được rèn luyện chu đáo, đánh thắng hết trận này qua trận khác. Họ cũng theo đuổi chính sách ngoại giao mềm dẻo, sẵn sàng liên minh với bất kỳ thế lực nào. Từ đấy, vương quốc mở rộng dần lãnh thổ.

Thống nhất nước Đức

Trước khi thống nhất năm 1871, các quốc gia Đức đã không tập trung vào sự phát triển của hải quân. Điều này về cơ bản đã ngăn cản sự tham gia của Đức trong cuộc tranh giành với các nước đế quốc trước đó nhằm thiết lập lãnh thổ thuộc địa từ xa – cái gọi là “Weltpolitik” (một chính sách của Đức). Đức cố gắng bắt kịp các nước khác

. Các quốc gia Đức trước năm 1870 đã giữ lại các cấu trúc chính trị và mục tiêu chính trị riêng biệt, chính sách đối ngoại của Đức dưới thời Otto von Bismarck tập trung vào giải quyết “câu hỏi Đức” ở châu Âu, tập trung hơn vào việc đảm bảo quyền lợi của Đức trên lục địa.

Mặt khác, người Đức có truyền thống thương mại hàng hải có niên đại từ Liên minh Hanse; một truyền thống tồn tại của di dân Đức (phía đông theo hướng của Nga và Transylvania, và hướng phía tây đến châu Mỹ); đồng thời các thương gia, nhà truyền giáo của Bắc Đức tỏ ra quan tâm đến những quyền lợi ở nước ngoài.

Các nước cộng hòa Hanseatic của Hamburg và Bremen đã gửi các thương nhân đi khắp toàn cầu. Những nhà kinh doanh này đã tự mình thành công như Privatkolonisatoren thành công [các nhà thực dân độc lập] và ký kết các hiệp ước và mua đất ở châu Phi và Thái Bình Dương với các thủ lĩnh hoặc các lãnh đạo bộ tộc khác.

Tuy nhiên, những thỏa thuận ban đầu này với các thực thể địa phương đã hình thành cơ sở cho các hiệp ước sáp nhập, hỗ trợ ngoại giao và bảo vệ quân sự của chính phủ Đức

Đế quốc Đức hình thành

Trong giai đoạn 1866-1871, thiên tài chính trị Otto von Bismarck chấm dứt tình trạng chia rẽ giữa các lãnh thổ do người Đức cai trị, vốn đã hiện diện gần một nghìn năm, thay vào đấy là nước Đức – Phổ. Bismarck đã tạo dựng nên một Đế quốc Đức quy tụ dân tộc có thiên bẩm, năng động.

Khi nắm quyền Thủ tướng nước Phổ năm 1862, Otto von Bismarck đã tuyên bố: Những vấn đề trọng đại hiện giờ sẽ không được giải quyết bằng lá phiếu theo đa số, mà qua cách thức sắt máu. Chính xác đấy là cách ông tiến hành, dù ông cũng sử dụng đường lối ngoại giao nhưng thường có tính dối trá.

Mục tiêu của Bismarck là xóa bỏ tự do, củng cố quyền lực theo đường lối bảo thủ – đấy là quyền lực của tầng lớp quý tộc Junker, của quân đội và vương triều – và biến Đế quốc Đức thành cường quốc.

Bismarck trước tiên lo gây dựng quân đội Phổ vốn là nòng cốt cho lực lượng quân sự của đế quốc. Khi nghị viện không chịu biểu quyết thêm ngân sách, ông giải tán nghị viện rồi tự huy động nguồn kinh phí. Sau khi đã tăng cường quân đội, Bismarck phát động ba cuộc chiến.

Khởi đầu là đánh Đan Mạch năm 1864, sáp nhập các công quốc Schleswig và Holstein vào lãnh thổ Đức. Kế tiếp là đánh Áo năm 1866, giành được chiến thắng lừng lẫy trong trận đánh quyết định tại Königgrätz. Sau đó, cuộc chiến tranh Pháp-Phổ bùng nổ, Quân đội Phổ đại thắng trong trận Sedan, buộc quân Pháp phải xin hàng.

Nước Phổ sáp nhập mọi công quốc của người Đức nằm về phía bắc sông Main: Hanover, Hesse, Nassua, Frankfurt và Elbe. Vào năm 1870, thấy nước Phổ ngày một lớn mạnh, Pháp hung hăng gây chiến. Nhưng nước Phổ liên minh với các nước miền Nam Đức, có vũ trang tốt hơn, tổ chức cao hơn và chiến đấu tốt hơn, đã dễ dàng đối phó với quân thù. Chỉ chưa đầy 2 tháng, sức mạnh của Pháp đã tan tành mây khói.

Trong trận đánh kịch liệt tại Sedan, liên quân Đức xông pha như vũ bão đập tan nát địch quân. Hoàng đế Pháp là Napoléon III bị bắt, để rồi Pháp phải chịu thất bại nhục nhã. Những lãnh thổ miền nam nước Đức, đứng đầu là vương quốc Bayern, được sáp nhập vào nước Đức-Phổ.

Sự phát triển của Đế Quốc Đức

Thành tựu quang vinh của Thủ tướng Bismarck là sự ra đời của Đế quốc Đức ngày 18 tháng 1 năm 1871, khi Quốc vương Wilhelm I của Phổ cử hành lễ đăng quang làm Hoàng đế Đức trong Điện Versailles của Pháp. Đế quốc Đức được thống nhất nhờ quân lực Phổ. Vào lúc này, đấy là cường quốc hùng mạnh nhất ở lục địa châu Âu; đối thủ duy nhất trên toàn châu Âu chỉ có Vương quốc Anh.

Tuy thế, có một nhược điểm nghiêm trọng. Trên thực tế, Đế quốc Đức chỉ là nước Phổ mở rộng; thực lực của Đế quốc chỉ là thực lực của Phổ. Đấy là sự thật, và gây hậu quả tai hại cho chính người Đức. Từ năm 1871 đến năm 1933 và thật ra cho đến ngày tàn của Hitler năm 1945, dòng lịch sử của Đức cứ thẳng tiến theo cách như thế, ngoại trừ nền Cộng hòa Weimar ngắn ngủi (1918-1933).

Dù cho vẻ bề ngoài dân chủ qua việc thành lập Nghị viện, Đế quốc Đức thật ra là chế độ chuyên chế quân phiệt dưới quyền của vua Phổ, cũng là Hoàng đế Đức. Nghị viện không có nhiều quyền hành, mà chỉ là một diễn đàn để đại diện nhân dân bàn cãi cho hả dạ hoặc mặc cả quyền lợi nhỏ nhoi cho giai cấp mà họ làm đại diện. Ngai vàng nắm quyền hành – theo ý niệm thiêng liêng.

Tuy Hoàng đế Friedrich III (lên ngôi vào năm 1888), gắn bó mãnh liệt với phong trào chủ nghĩa tự do nước Đức thời đó, ông lại mất sớm. Về sau này, năm 1910, Hoàng đế Wilhelm II còn tuyên bố rằng ngai vàng “chỉ do Thượng đế trao cho, chứ không phải từ nghị viện hoặc qua dân chúng.” Ông còn nói thêm: “Vì bản thân Trẫm là công cụ của Thượng đế, Trẫm làm theo ý mình.”

Hoàng đế không bị Nghị viện ngăn trở. Ông bổ nhiệm Thủ tướng để chịu trách nhiệm với chính ông, không phải với Nghị viện vốn không có quyền bất tín nhiệm. Vì thế, trái ngược với sự tiến hóa của các quốc gia khác ở Tây Âu, ý niệm về dân chủ, về quyền hạn của nghị viện không bao giờ bén rễ ở Đức, ngay vào đầu thế kỷ 20. Dù cho các đảng phái lớn tiếng đòi hỏi chế độ quân chủ nghị viện, họ vẫn không thành công.

Các tầng lớp trung lưu, được hưởng lợi từ cuộc cách mạng công nghiệp và bị lóa mắt vì chính sách hiếu chiến của Bismarck, chỉ biết tiếp nhận lợi ích vật chất mà không thiết tha gì đến tự do chính trị mà họ có quyền hưởng. Họ chấp nhận chế độ chuyên chế của vương triều Hohenzollern. Họ cam lòng nép dưới bộ máy cai trị của tầng lớp quý tộc Junker và chế độ quân phiệt của Phổ.

Giai cấp công nhân Đức cũng có thái độ tương tự. Để ngăn chặn chủ nghĩa xã hội, trong giai đoạn 1883-1889 Bismarck thiết lập chương trình an ninh xã hội rộng rãi, bao gồm bảo hiểm cho lương hưu, bệnh tật, tai nạn và thương tật. Dù cho Nhà nước tổ chức, nguồn kinh phí được lấy từ chủ và thợ. Việc này khiến cho giai cấp công nhân đánh giá cao an ninh xã hội hơn là tự do về chính trị, và xem Nhà nước là ân nhân của họ.

Hitler sau này lợi dụng triệt để tâm lý ấy. Trong quyển Mein Kampf, ông viết: “Tôi đã nghiên cứu pháp chế chủ nghĩa xã hội của Bismarck.” Nước Đức vươn lên, và hầu như toàn dân Đức đều nức lòng làm theo tất cả những gì mà nhà lãnh đạo đòi hỏi.

Sau chiến thắng trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ, Bismarck thiết lập liên minh với Đế quốc Áo-Hung và Đế quốc Nga ở phía Đông, do phía Tây là mối đe dọa lớn nhất cho Đế quốc Đức. Tuy nhiên, Đức hoàng Wilhelm II sau khi lên ngôi đã sa thải Bismarck vào năm 1890. Đức hoàng cũng xé bỏ liên minh với Nga, buộc Nga phải thành lập liên minh quân sự với nước Pháp đang khao khát báo thù.

Năm 1914, Thế chiến thứ nhất bùng nổ. Quân đội Đế quốc Đức – dưới sự chỉ huy của tướng Paul von Hindenburg – đại phá quân Nga trong trận Tannenberg vào tháng 9 năm đó. Chiến thắng này được xem là sự báo thù của dân tộc Đức cho đại bại của các Hiệp sĩ Teuton trước quân Nga trong trận Grunwald vào năm 1410.

Thời kỳ tranh giành thuộc địa của Đế Quốc Đức

Nhiều người Đức vào cuối thế kỷ XIX đã xem các vụ mua bán thuộc địa như là một dấu hiệu thực sự của việc đạt được sự tốt lành. Ý kiến ​​của công chúng cuối cùng đã đến hiểu biết rằng các thuộc địa châu Phi và Thái Bình Dương có uy tín đã trong tầm tay giấc mơ của Hạm đội hải quân.

Cả hai nguyện vọng sẽ trở thành hiện thực, được hỗ trợ bởi một tờ báo là Kolonialfreunde [tờ báo ủng hộ việc mở rộng thuộc địa] và vô số các hiệp hội địa lý và xã hội thuộc địa. Ngược lại, thủ tướng Bismarck và nhiều đại biểu trong Quốc hội đế quốc Đức đã không quan tâm đến cuộc chinh phục thuộc địa chỉ để có được vài dặm vuông lãnh thổ.

Về bản chất, động cơ thuộc địa của Bismarck đã được ông đã nói nhiều lần “… Tôi không phải là người dành cho các thuộc địa” và “vẫn là khinh thường của tất cả các giấc mơ thuộc địa hơn bao giờ hết.” Tuy nhiên, năm 1884, ông đã đồng ý với việc thiết lập các thuộc địa của Đế chế Đức, nhằm bảo vệ thương mại, bảo vệ nguyên liệu và thị trường xuất khẩu và nắm bắt cơ hội đầu tư vốn, và các lý do khác.

Trong năm tiếp theo, Bismarck rời bỏ sự tham gia của ông khi “ông ta bỏ việc hướng đến thuộc địa của mình một cách đột ngột và tình cờ khi ông ta bắt đầu” như thể ông đã phạm sai lầm trong phán đoán có thể gây nhầm lẫn cho các chính sách quan trọng của ông. “Thật vậy, vào năm 1889, [Bismarck] đã cố gắng đưa Đức-Tây Phi giao đến Anh. Vì như anh ta nói, đó là một gánh nặng và một khoản chi phí, và anh ta đẩy cho kẻ khác đến với chúng.”

Đế Quốc Đức mua lại thuộc địa

Đế chế Thực dân Đức bắt đầu vào khoảng năm 1884, trong những năm đó, Đế quốc Đức đã xâm chiếm một số lãnh thổ ở Châu Phi: Đông Phi thuộc Đức (bao gồm Burundi , Rwanda ngày nay và phần đất liền của Tanzania); Tây Nam Phi thuộc Đức ( Namibia ngày nay ), kamerun thuộc Đức (bao gồm các bộ phận của Cameroon , Gabon, Congo, Cộng hòa Trung Phi, Chad và Nigeria ngày nay); và Togoland (Togo ngày nay và các vùng của Ghana).

Đế quốc Đức cũng tăng cường hoạt động ở Thái Bình Dương, sáp nhập một loạt các đảo sẽ được gọi là New Guinea thuộc Đức (một phần của New Guinea ngày nay và một số nhóm Đảo lân cận).

Vùng đông bắc của New Guinea được gọi là Kaiser – Wilhelmsland, quần đảo Bismarck nằm về phía đông quần đảo, đây còn có hai hòn đảo lớn hơn tên là New Mecklenburg và New Pomerania, họ cũng mua lại quần đảo Bắc Solomon. Những hòn đảo này được trao cho tình trạng bảo hộ

Sự tiếp nối Đế Quốc Đức

Đế chế thứ hai là ý niệm gán cho Đế quốc Đức (1871-1918), tiếp theo Đế chế thứ Nhất là ý niệm gán cho Đế quốc La Mã Thần thánh. Tiếp nối là Đế chế thứ ba của những người theo Đảng Đức Quốc xã do Adolf Hitler làm Lãnh tụ.

Tên gốc theo tiếng Đức Deutsches Reich cũng là tên chính thức được tiếp tục sử dụng cho Cộng hòa Đức (1919-1933) và nước Đức dưới chế độ Quốc xã (1933-1945).

Hiến pháp Đức có hiệu lực trong thời gian 1919-1933, do hội nghị đại biểu nhân dân soạn ra ở Thành phố Weimar (vì thế có tên thông dụng là Hiến pháp Weimar vẫn mang tựa chính thức là Verfassung des Deutschen Reichs (Hiến pháp của Đế quốc Đức) giống như tựa của bản hiến pháp có hiệu lực trong thời gian 1871-1919.

Trước tiên là Bismarck, kế đến là Đức hoàng Wilhelm II và cuối cùng Hitler đã thành công trong việc nuôi dưỡng tham vọng về quyền lực và thống trị, với sự hỗ trợ của giai cấp quân phiệt.

Từ đấy dẫn đến xu hướng thích sử dụng quân đội, khinh thường dân chủ và tự do cá nhân, chỉ theo đuổi chế độ chuyên chế. Theo chiều hướng như thế, Đế quốc Đức nổi lên đến tầm cao mới, xuống dốc rồi vươn lên lại trong Đế chế thứ Ba, cho đến lúc xem chừng bị hủy diệt cùng với Hitler vào mùa xuân 1945.

Đế quốc Đức

Đế quốc Đức và Adolf Hitler

Hitler luôn tìm cách khơi dậy trong lòng người Đức về vinh quang của Đế quốc Đức trước đó. Ví dụ nổi bật nhất là sau khi Tòa nhà Nghị viện bị cháy năm 1933, Hitler khai mạc phiên họp Nghị viện mới trong Nhà thờ Doanh trại Potsdam, là thánh địa của nước Phổ xa xưa, gợi lại trong lòng người Đức nhiều hoài niệm.

Đây chính là nơi mà vua Friedrich II Đại Đế yên nghỉ (nhưng thi hài ông được dời về Cung điện Sanssouci vào tháng 8 năm 1991), nơi tôn thờ các hoàng đế vương triều Hohenzollern. Ngày được chọn để cử hành lễ khai mạc Nghị viện đầu tiên của Quốc xã, 21/3, cũng có ý nghĩa. Đấy là ngày kỷ niệm Bismarck khai mạc Nghị viện đầu tiên của Đế chế thứ hai vào năm 1871.

Hitler luôn có ảm ảnh về “không gian sinh tồn” – là chủ đề vương vấn ông cho đến ngày cuối, được trình bày trong quyển sách Mein Kampf của ông.

Theo Hitler, Hoàng gia Hohenzollern đã sai lầm khi tìm kiếm thuộc địa xa xôi ở châu Phi. Ông nghĩ Đức phải mở rộng lãnh thổ bằng cách chiếm đất ở miền Đông, theo đường ranh giới “600 năm về trước” vì vào thời kỳ này, Đế chế thứ Nhất trở nên cực thịnh. Từ ý tưởng phục hồi đế quốc này mà Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ.

Hitler nghiên cứu Đế chế thứ Hai khá kỹ. Đối với ông, cho dù có sai lầm, Đế chế thứ Hai là thành tựu sáng chói mà người Đức đạt được. Đấy là nước Đức mà Hitler muốn tái lập.

Trong quyển Mein Kampf, Hitler bàn sâu về những lý do khiến cho Đế chế thứ Hai sụp đổ: việc dung dưỡng người Do Thái và người theo Mác-xít, tư tưởng trọng vật chất và ích kỷ của giới trung lưu, ảnh hưởng bất chính của những kẻ “luồn cúi và xu nịnh” quanh ngai vàng Hohenzollern, “chính sách liên minh tai hại” với Vương triều Habsburg suy đồi và người Ý không đáng tin thay vì với Anh, thiếu chính sách về chủng tộc và xã hội cơ bản. Đây là những thất bại mà Hitler hứa Đức Quốc xã sẽ khắc phục.

Kế thừa Đế Quốc Đức

Không giống như các đế quốc thuộc địa khác như Anh , Pháp hay Tây Ban Nha , Đức để lại rất ít dấu vết về ngôn ngữ, thể chế hoặc phong tục của chính mình ở các thuộc địa cũ của mình. ngày nay, không có quốc gia nào ngoài châu Âu sử dụng tiếng Đức làm ngôn ngữ chính thức, mặc dù ở Namibia, tiếng Đức là ngôn ngữ quốc gia được công nhận và có rất nhiều địa danh và công trình kiến ​​trúc của Đức ở quốc gia này. Một nhóm dân tộc thiểu số nhỏ của Đức cũng cư trú tại nước này.

Trên đây là một số thông tin về Đế quốc Đức Du học Aloha muốn chia sẻ với các bạn. Hy vọng nội dung trên sẽ giúp các bạn hiểu thêm về Đế quốc thực dân Đức là gì? và cờ Đế quốc Đức trước kia.

Nếu các bạn muốn tìm hiểu thêm về các thông tin khác thì hãy đón đọc những bài viết mới của chúng tôi nhé!

Có thể bạn quan tâm:

© Copyright 2023 Aloha