Mì Ramen là gì? Rāmen của nước nào? Cách nấu ra sao?
Mì Ramen là gì? Mì ramen của nước nào? Cách nấu mì Ramen chuẩn hương vị Nhật Bnar nhưu thế nào? Ramen là một trong những món ăn nổi tiếng từ lâu của Nhật.
Hơn nữa, đây được xem là một món nước đặc trưng tại xứ sở hoa anh đào và được nhiều nước trên thế giới yêu thích.
Vậy bạn đã biết trong mì ramen đã có thành phần gì chưa? Lịch sử ra đời của nó thế nào? Hãy cùng Du học Aloha tìm hiểu ngay nhé!
Mì ramen là gì?
Ramen (ラーメン hoặc 拉麺 (lạp miến) rāmen) là một món mì của Nhật Bản. Món này làm từ mì sợi Trung Quốc kèm với thịt hoặc (thỉnh thoảng) nước dùng làm từ cá, thường có hương vị với nước tương hoặc miso, và sử dụng các lớp phủ như thịt lợn thái mỏng (叉焼, xá xíu), nori (rong biển sấy khô), menma, và hành lá.
Mì ramen là món ăn được xem là “Quốc hồn” của Nhật Bản. Ra đời sau các loại mì Udon, Soba hay Somen nhưng mì ramen đã trở thành món ăn phổ biến và nhất định phải thử khi đến đất nước mặt trời mọc.
Nguồn gốc của ramen vẫn là một câu hỏi chưa được làm sáng tỏ. Nhiều người cho rằng Ramen có xuất xứ từ Trung Quốc nhưng họ lại không rõ thời điểm nó được du nhập vào Nhật Bản. Còn vài nguồn khác thì cho rằng vào đầu thế kỷ 20, ramen đã được phát minh tại Nhật Bản.
Gần như mọi vùng ở Nhật Bản đều có biến thể ramen riêng, chẳng hạn như ramen tonkotsu (nước hầm xương heo) của Kyushu và ramen miso của Hokkaido. Mazemen là tên của một loại mì ramen không dùng với nước xúp mì mà là với nước xốt (như xốt Yakiniku), giống như mì được dùng với tương chua ngọt.
Theo chuyên gia ramen – ông Osaki Hiroshi, cửa hàng ramen đầu tiên đã được mở tại Yokohama vào năm 1910. Từ thập niên 1980, Ramen dần dần trở thành một biểu tượng văn hóa của Nhật và lan rộng trên toàn thế giới.
Đến năm 1994, tại khu phố nhỏ trong Yokohama đã chính thức mở một bảo tàng ramen với rất nhiều hiện vật trưng bày về lịch ra đời và phát triển của món ăn này.
Mì ramen của nước nào?
Mì Ramen là một món ăn truyền thống của đất nước Nhật Bản
Nguồn gốc lịch sử mì Ramen
Ramen có nguồn gốc từ đâu vẫn là một câu hỏi không rõ ràng. Nhiều nguồn cho rằng ramen có nguồn gốc từ Trung Quốc nhưng người ta không rõ nó được du nhập vào Nhật Bản từ khi nào. Nhiều nguồn khác cho rằng nó được phát minh ở Nhật Bản vào đầu thế kỷ 20.
Từ nguyên học của “Ramen” vẫn còn là một chủ đề tranh cãi.
- Có giả thiết cho rằng ramen là cách phát âm trong tiếng Nhật của từ gốc tiếng Trung là lạp miến (拉麺), nghĩa là “mì kéo sợi thủ công (bằng tay).”
- Giả thiết thứ 2 cho rằng nó xuất phát từ 老麺 (lão miến) còn một nguồn khác cho rằng ramen ban đầu là 鹵麺 (lỗ miến), mì được nấu trong nước xốt nhiều tinh bột.
- Giả thiết thứ 4 xuất phát từ 撈麵 (lao miến). Cho tới thập niên 1950, ramen vẫn được gọi là shina soba (支那そば, nghĩa là “soba Trung Quốc”) nhưng ngày nay chūka soba (中華そば, cũng có nghĩa là “soba Trung Quốc”) hoặc đơn giản là Ramen (ラーメン) thường gặp hơn, khi mà từ “支那” (shina, đọc âm Hán Việt là “chi na”) mang một ý nghĩa miệt thị.
Đến năm 1900, các nhà hàng phục vụ ẩm thực Trung Hoa từ Quảng Châu và Thượng Hải đã phục vụ một món mỳ ramen với sợi mỳ đơn giản (cắt chứ không kéo bằng tay), một vài đồ ăn bày kèm, và nước dùng từ xương lợn và muối. Nhiều người Hoa sống tại Nhật Bản cũng kéo các xe bán đồ ăn mang đi, bán ramen và bánh bao và gyōza cho công nhân.
Đến giữa thập niên 1900, những xe bán đồ ăn này sử dụng một loại còi phát nhạc gọi là charumera (チャルメラ, xuất phát từ tiếng Bồ Đào Nha charamela) để quảng cáo sự hiện diện của họ, một thói quen mà một vài nhà hàng vẫn giữ lại thông qua một cái loa và một đoạn thu âm được lặp lại. Đến đầu thời kỳ Shōwa, ramen đã trở thành một món ăn phổ biến khi ra ngoài ăn.
Theo chuyên gia ramen Osaki Hiroshi, cửa hàng ramen chuyên biệt đầu tiên được mở tại Yokohama vào năm 1910
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, bột mỳ rẻ tiền nhập khẩu từ Hoa Kỳ tràn vào thị trường Nhật Bản. Cùng thời điểm đó, hàng triệu quân nhân Nhật đã trở về từ Trung Quốc và lục địa Đông Á từ sau Chiến tranh Trung – Nhật. Nhiều người trong số những người trở về đã trở nên quen thuộc với các món ăn Trung Quốc và sau đó mở ra các nhà hàng Trung Quốc trên khắp Nhật Bản. Việc ăn ramen, trong khi đó đang phổ biến, vẫn còn là một dịp đặc biệt mà yêu cầu phải ra ngoài đường để đi ăn.
Năm 1958, mỳ ăn liền được phát minh bởi Andō Momofuku, nhà sáng lập và là chủ tịch người Nhật Bản gốc Đài Loan của Nissin Foods, hiện được điều hành bởi người con trai Andō Kōki. Được mệnh danh là phát minh vĩ đại nhất thể kỷ 20 của Nhật Bản trong một cuộc thăm dò của Nhật Bản, ramen ăn liền cho phép bất cứ ai có thể làm ra một phiên bản món ăn gần giống chỉ đơn giản bằng cách thêm nước sôi.
Bắt đầu từ thập niên 1980, ramen đã trở thành một biểu tượng văn hóa của Nhật Bản và đã được nghiên cứu trên toàn thế giới từ nhiều góc độ. Đồng thời, các phiên bản địa phương của ramen đã được đưa ra thị trường quốc gia và thậm chí có thể được sắp xếp theo tên khu vực của họ. Một bảo tàng ramen đã được mở cửa tại Yokohama vào năm 1994.
Bát mì ramen gồm những gì?
Có một loạt các loại món ramen tồn tại ở Nhật Bản, với sự khác biệt về địa lý và nhà cung cấp cụ thể, ngay cả trong các phân loại chia sẻ cùng tên. Ramen có thể được phân loại bởi hai thành phần chính: sợi mỳ và nước dùng.
Sợi mỳ
Hầu hết mì được làm từ bốn thành phần cơ bản: bột mì, muối, nước và Kansui (鹹水 (kiềm thủy)/ かんすい/ カンスイ?)) một loại nước khoáng có tính kiềm, có chứa natri cacbonat và thường có kali cacbonat, cũng như đôi khi một lượng nhỏ axit photphoric.
Kansui là thành phần phân biệt trong mỳ ramen, và có nguồn gốc từ vùng Nội Mông, nơi mà một số hồ nước chứa một lượng lớn các chất khoáng này và có loại nước được cho là hoàn hảo để làm món mỳ này.
Làm mỳ với kansui khiến cho mỳ có một màu vàng cũng như một kết cấu vững chắc. Trứng cũng có thể được thay thế cho kansui. Một vài loại mỳ không làm từ trứng hay kansui và chỉ nên được sử dụng cho yakisoba, vì chúng có một cấu trúc yếu hơn và trở nên cực kỳ mềm khi nấu mỳ nước.
Ramen có nhiều dạng và độ dài sợi khác nhau. Nó có thể dày, mỏng, hoặc thậm chí chỉ mỏng như sợi ruy băng, cũng như có thể thẳng hoặc nhăn nheo.
Nước dùng
Nước dùng của ramen nói chung là nước dùng nấu từ thịt gà hoặc thịt lợn, kết hợp với một loạt các thành phần như kombu (tảo bẹ), katsuobushi (vụn cá ngừ vằn phơi khô bào mỏng), niboshi (cá mòi nhỏ phơi khô), xương bò, nấm hương (shiitake) và hành tây.
Hương vị
Kết quả của các sự kết hợp nói chung được chia làm năm loại (mặc dù các biến thể mới và ban đầu thường làm cho sự phân loại này ít rõ ràng).
Thứ tự từ loại lâu đời nhất.
- Shōyu (醤油, “nước tương”) ramen là loại lâu đời nhất trong năm loại, nó có nước dùng trong màu nâu, nấu từ gà và rau củ (hoặc đôi khi là cá hoặc thịt bò) với nhiều nước xốt đậu nành được thêm vào dẫn đến một món xúp thơm, mặn và đậm vị thịt nhưng vẫn khá vừa miệng. Shōyu ramen thường dùng mỳ xoăn chứ không thẳng, nhưng không phải luôn như vậy. Nó thường được trang trí với măng tre ướp hay menma, hành lá, kamaboko (chả cá Nhật), nori (rong biển), trứng luộc, giá đỗ và/hoặc hạt tiêu; thỉnh thoảng món canh cũng sẽ chứa dầu ớt hoặc gia vị Trung Quốc, và một số cửa hàng phục vụ thịt bò thái lát thay vì chāshū bình thường.
- Shio (“muối”) ramen là một loại nước dùng vàng nhạt và trong làm với nhiều muối và bất kỳ sự kết hợp nào cùng thịt gà, rau củ, cá và rong biển. Đôi khi xương lợn cũng được sử dụng, nhưng chúng không được hầm như ở món tonkotsu ramen, giữ cho món canh vị nhạt và trong. Chāshū đôi khi được đổi cho món thịt viên thịt nạc gà, và mận ngâm và kamaboko (một lát cá cuộn đã chế biến đôi khi được phục vụ như một vòng tròn màu trắng xếp nếp với một xoắn ốc màu hồng hoặc đỏ gọi là narutomaki) cũng là những món bày kèm phổ biến. Có các kết cấu và độ dày của sợi mỳ khác nhau giữa các món shio ramen, nhưng chúng thường thẳng chứ không xoăn.
- Miso ramen là một loại tương đối mới, bắt đầu nổi bật trên toàn quốc vào khoảng năm 1965. Loại ramen Nhật Bản độc đáo này, được phát triển ở Hokkaido, có nước dùng kết hợp với một lượng dư miso và được pha trộn với nước dùng béo của gà hoặc nước dùng cá – và đôi khi với tonkotsu hoặc mỡ lợn – để tạo ra một món canh đặc, hấp dẫn, hơi ngọt và rất nồng. Nước dùng của miso ramen có xu hướng đạt được một hương vị mạnh mẽ, hơi gắt, vì vậy nó đi kèm với một loạt các món ăn đầy hương vị bày kèm trên bề mặt: xốt đậu tương cay tōbanjan (豆板醤), bơ và ngô, tỏi tây, hành tây, giá đỗ, thịt lợn xay, cải bắp, hạt mè, hạt tiêu trắng và tỏi băm nhỏ là tương đối phổ biến. Sợi mỳ thường dày, xoăn và hơi dai.
- Tonkotsu (豚骨, “xương lợn”; không nên nhầm lẫn với tonkatsu) ramen thường có nước dùng màu trắng đục. Nó tương tự như món bạch thang (白湯) của Trung Quốc và có một loại nước dùng đặc làm từ xương lợn hầm, chất béo và collagen trên lửa to trong nhiều giờ, mà thêm cho nước dùng một hương vị nồng và một dạng kem đục đồng nhất có thể so sánh với sữa, bơ nấu chảy hoặc nước thịt (tuỳ thuộc vào cửa hàng). Nhiều cửa hàng, nhưng không phải tất cả, hoà trộn loại nước dùng lợn này với một lượng nhỏ nước luộc gà và rau và/hoặc nước tương. Sợi mỳ mỏng và thẳng, và nó thường được phục vụ với beni shoga (gừng ngâm). Trong những năm gần đây, xu hướng mới nhất trong các món bày kèm bên trên tonkotsu là māyu (dầu vừng), một loại dầu có màu hơi đen và mùi thơm chiết từ tỏi nghiền đốt thành than hoặc hạt vừng. Đó là một đặc sản của Kyushu, đặc biệt là vùng Hakata, Fukuoka (vì thế đôi khi món này được gọi là “Hakata ramen”).
- Ramen cari được tạo ra lần đầu vào năm 1965 ở Hokkaido, chủ yếu sử dụng nước dùng từ xương lợn và rau củ ướp với bột cà ri. Món này sử dụng sợi mỳ dày và xoăn, và có các món ăn kèm như xá xíu, wakame và giá đỗ. Đó là một đặc sản của Hokkaido, đặc biệt là thành phố Muroran (vì thế đôi khi món này được gọi là “ramen cari Muroran”).
Đồ bày kèm
Sau khi chế biến cơ bản, ramen có thể được nêm nếm và tăng hương vị với bất kỳ số lượng đồ ăn bày kèm nào
Bao gồm nhưng không giới hạn trong:
- Chāshū (thịt lợn nướng/om rồi thái lát)
- Hành lá
- Trứng luộc đã thêm gia vị
- Giá đỗ hoặc bất kì loại rau mầm nào khác
- Menma (măng muối chua)
- Kakuni (thịt lợn viên hoặc nặn hình vuông và om)
- Nori (rong biển sấy khô)
- Narutomaki/kamaboko (chả cá nặn thành hình sẵn)
- Ngô
- Bơ
- Wakame
Món thêm theo sở thích
Các loại gia vị thường được thêm vào ramen là tiêu đen, bơ, ớt, hạt mè và tỏi nghiền. Công thức nấu nước dùng và các phương pháp chế biến thường là các bí mật được bảo vệ chặt chẽ.
Trong hầu hết các nhà hàng phục vụ tonkotsu ramen cũng cung cấp một hệ thống gọi là kae-dama (替え玉), nơi mà khách đã ăn mỳ xong có thể yêu cầu một phần mỳ “thêm vào” (với khoảng vài trăm yên trở lên) để thêm vào phần nước dùng còn lại trong tô của họ
Các loại mì ramen Nhật Bản nổi tiếng
Nước dùng là phần đặc trưng nhất của một tô mì ramen. Sau đây là 5 loại mì ramen phổ biến nhất Nhật Bản.
Mì Tonkotsu Ramen
Nước dùng chủ yếu được làm từ xương và mỡ heo hầm trong nhiều tiếng đồng hồ, nên nước thường đặc và có màu trắng nhạt. Loại nước dùng này mang vị ngọt dịu từ xương heo và béo ngậy từ mỡ.
Sợi mì ăn với loại ramen này thường là loại nhỏ để dễ dàng cảm nhận được hết vị ngon của mì và nước dùng. Món ăn kèm thường là thịt heo, gừng muối chua, trứng luộc lòng đào, hành lá, rong biển và một số loại rau củ khác.
Mì Miso Ramen
Miso là một loại sốt đậu nành lên men. Miso Ramen thường được hầm sốt miso với thịt gà và cá để tạo ra vị ngọt nhẹ và hương thơm hấp dẫn. Sợi mì ăn chung với nước dùng này lại loại xoắn và dày, được ăn kèm với trứng luộc lòng đào, thịt xá xíu và chả cá.
Mì Shoyu Ramen
Thành phần chính của loại nước dùng này là xì dầu, nấu chung với thịt và rau củ để tạo được vị ngọt từ thịt và hương thơm của đậu nành. Tuy nhiên, loại nước dùng này khá đậm, có thể sẽ khó ăn đối với nhưng ai quen ăn nhạt.
Sợi mì ăn với loại này thường là sợi nhỏ để nước dùng dễ thấm vào mì. Loại mì này thường ăn kèm măng khô, chả cá, rong biển, thịt xá xíu và trứng luộc lòng đào.
Mì Shio Ramen
Trong các loại Ramen thì có thể nói đây là loại có vị mặn nhất, vì nước dùng được nấu từ nhiều loại muối kết hợp với thịt gà hoặc xương heo.
Loại mì này được ăn kèm với thịt xá xíu, chả cá, trứng luộc lòng đào, măng khô, giá đỗ và một số loại rau khác. Nếu bạn không ăn được vị mặn của loại ramen này, hãy thử để thêm tí ớt để có một trải nghiệm mới nhé.
Mì Tsukemen Ramen
Ramen này còn được gọi là mì lạnh, vì mì sau khi luộc chín sẽ được mang đi làm lạnh, sợi mì cũng to hơn hẳn so với những loại mì khác. Đặc trưng của loại mì này là mì và nước dùng được để 2 tô riêng, khi ăn bạn sẽ gắp mì chấm vào nước dùng và thưởng thức.
Dù nhiều loại mì ramen khác nhau nhưng chúng đều có những nguyên liệu cố định để làm nên nét đặc trưng riêng của mì ramen Nhật Bản.
Nguyên liệu trong bát mì ramen
Về cơ bản bát mì ramen sẽ bao gồm:
Sợi mì
Sợi mì cho món Ramen được làm từ bột lúa mì, nước, muối và nước tro tàu, sợi mì ramen có thể là mì sợi thẳng hoặc xoắn, sợi mỏng hoặc dày. Tùy theo mỗi loại nước dùng mà chọn loại mì sợi mỏng hoặc dày để ngấm gia vị trong nước dùng.
Sợi mì chia làm ba kiểu: Mì tươi, mì khô, mì ăn liền (instant noodle).
Nước súp
Nước súp của mì ramen là sự hòa quyện của nước dùng dashi và tare, được hầm từ xương gà, xương heo, cá bào, tảo bẹ, các loại nấm trong suốt 10 tiếng và các gia vị (tare) như Shio, Shoyu và Miso
Nước súp mì Ramen có nhiều loại như: Shoyu – Nước tương Nhật, Shio – Muối, Miso – Tương đậu nành, Tonkotsu – Xương và thịt heo, và Gyokai – Hải sản.
Thịt heo
Thịt được dùng trong mì ramen là thịt heo, với 3 loại chính: Chashu, Kakuni, Bacon. Trong đó chashu (thịt heo xá xíu được hầm trong nước tương và rươụ mirin) được ưu thích hơn cả.
Trứng luộc
Không thể thiếu trong mì ramen đó là nửa quả trứng luộc lòng đào sau đó tẩm ướp với nước tương, rượu ngọt và được gọi là “Ajitsuke Tamago”.
Nguyên liệu chay
Nguyên liệu chay như đậu phụ, mì căn (Seitan), tương nén (Tempeh), đây đều là những nguyên liệu mà chúng ta thường thấy trong các món ăn Nhật.
Rau ăn kèm
Rau ăn kèm thích hợp nhất là măng tươi, giá đỗ, cải thìa, nấm hương, hành lá, rong biển khô, gừng muối, hành boa rô.
- Các gia vị khác: Bột ớt Nhật Bản, hạt vừng, sa tế, bột cà ri, muối, tiêu, xì dầu (nước tương).
Không ngờ lại có nhiều loại mì ramen như vậy, mỗi loại có một nét đặc trưng khác nhau.
Các biến thể mì ramen theo địa phương
Trong khi các phiên bản ramen tiêu chuẩn luôn có sẵn trên khắp Nhật Bản từ thời kỳ Đại Chính, vài thập kỷ qua đã cho thấy một sự gia tăng của các biến thể mang tính địa phương. Một số trong đó đã trở nên nổi tiếng trên toàn quốc có thể kể đến như:
- Sapporo, thủ phủ của Hokkaido, đặc biệt nổi tiếng với loại ramen của họ. Hầu hết người dân Nhật Bản đều nhắc tới Sapporo với món mỳ miso ramen đậm đà của nó, món ăn được phát minh tại đây và là món ăn lý tưởng cho mùa đông khắc nghiệt và nhiều tuyết của Hokkaido.
- Món miso ramen của Sapporo thường được bày kèm với ngô ngọt, bơ, giá đỗ, thịt lợn băm nhỏ và tỏi, và đôi khi có cả hải sản địa phương như sò điệp, mực ống và cua. Hakodate, một thành phố khác của Hokkaido, thì nổi tiếng với ramen vị muối của họ, trong khi Asahikawa ở phía Bắc hòn đảo phục vụ một biến thể với vị nước tương. Ở Muroran, nhiều nhà hàng ramen phục vụ món Muroran curry ramen.
- Kitakata ở phía bắc đảo Honshu được biết đến với món mỳ có sợi mỳ khá dày, dẹt và xoăn, phục vụ với nước dùng từ thịt lợn và niboshi. Khu vực này trong phạm vi thành phố cũ có số lượng bình quân đầu người cao nhất của các cơ sở ramen. Ramen có sự nổi bật trong khu vực như vậy đến mức độ, từ soba thường dùng để nhắc đến ramen, không phải là soba thực sự mà được nhắc tới như nihon soba (“soba Nhật Bản”).
- Ramen kiểu Tokyo gồm sợi mỳ xoăn hơi mỏng, phục vụ với nước dùng từ thịt gà với hương vị đậu nành. Nước dùng phong cách Tokyo thường có sự hiện diện của dashi, khi mà các cơ sở ramen lâu đời ở Tokyo thường có nguồn gốc từ các cửa tiệm bán soba. Đồ ăn bày kèm tiêu chuẩn thường có hành lá băm nhỏ, menma, thịt lợn thái lát, kamaboko, trứng, nori và rau bina. Ikebukuro, Ogikubo và Ebisu là ba khu vực ở Tokyo được biết đến với loại ramen của họ.
- Ramen đặc trưng của Yokohama được gọi là Ie-kei (家系). Nó bao gồm sợi mỳ dày và rất thẳng, phục vụ với nước dùng từ thịt lợn có hương vị đậu nành tương tự như tonkotsu. Đồ ăn bày kèm thường có thịt lợn quay (xá xíu), rau bina luộc, vài tấm nori, thường có hành hoa (negi) thái nhỏ, và một quả trứng luộc lòng đào hoặc chín hẳn. Theo truyền thống, khách sẽ được yêu cầu độ mềm của sợi mỳ, độ đậm của nước dùng và lượng dầu mà họ muốn.
- Wakayama ramen ở vùng Kansai có nước dùng được nấu từ nước tương và xương lợn.
- Hakata ramen có nguồn gốc từ quận Hakata của thành phố Fukuoka ở Kyushu. Nó có nước dùng tonkotsu đục và đậm đà từ xương lợn, và sợi mỳ khá mỏng, không xoắn và đàn hồi. Thông thường, những đồ ăn kèm bày trên đặc trưng như tỏi nghiền, beni shoga (gừng muối), hạt mè, và mù tạt xanh muối cay (karashi takana) được để trên bàn cho khách tự phục vụ.
Các quầy hàng ramen ở Hakata và Tenjin đều rất nổi tiếng ở Nhật Bản. Các xu hướng gần đây đã làm cho Hakata ramen trở thành một trong những loại mỳ phổ biến nhất ở Nhật Bản, và một số chuỗi nhà hàng chuyên về Hakata ramen có thể được tìm thấy trên khắp đất nước.
Cách nấu mì ramen Nhật Bản
Để nấu mì Ramen Nhật Bản tại nhà thì các bạn cần chuẩn bị nguyên liệu:
Nguyên liệu:
- Mì Ramen: 2 Vắt
- Thịt Xá Xíu Nhật: 100g
- Thịt Heo Băm: 300g
- Mè Rang: 2 Muỗng
- Hành Lá: 1 Nhánh
- Hành Paro: 1 Cây
- Giá: 100g
- Hành Tím Băm: 1 Muỗng
- Gừng Băm: 1 Muỗng
- Tỏi Băm: 1 Muỗng
- Nước Dùng: 1.5L
Gia vị xào thịt băm:
- Dầu Mè: 2 Muỗng
- Miso Trắng: 65g
- Đường: 1/2 Muỗng
- Sake: 1 Muỗng
Gia vị nêm nước dùng:
- Muối: 1/3 Muỗng
- Bột Cá Nhật: 1/2 Muỗng
- Bột Ngọt: 1/4 Muỗng
Thực hiện làm (các bạn có thể tham khảo quy trình làm của đầu bếp Hoshi Phan)
Cách làm mì Ramen Nhật của Hoshi Phan
Mong rằng bài viết trên này sẽ giúp các bạn hiểu thêm về mì ramen Nhật Bản cũng như những nguyên liệu không thể thiếu để làm nên món mì ramen.
Trên đây là một số thông tin về mì ramen là gì? mà Du học Aloha muốn chia sẻ với các bạn. Hy vọng nội dung trên sẽ giúp các bạn hiểu được mì ramen của nước nào rồi nhé!
Nếu quan tâm tới các thông tin về Nhật Bản thì hãy đón đọc bài viết mới nhất của chúng tôi nhé!