Chủ nghĩa phát xít là gì? Nguồn gốc, đặc điểm và hệ quả tư tưởng này
Chủ nghĩa phát xít là gì? Sự ra đời của chủ nghĩa phát xít diễn ra trong bối cảnh nào? Tư tưởng này có ảnh hưởng gì tới lịch sử thế giới? Nó gây ra hậu quả gì?
Sau đây hãy cùng Du học Aloha khám phá chi tiết qua nội dung sau nhé!
Chủ nghĩa phát xít là gì?
Chủ nghĩa phát xít là một hệ tư tưởng chính trị và phong trào chính trị cực hữu đặc trưng bởi sức mạnh độc tài, cưỡng chế, đàn áp đối lập, và sự đoàn kết mạnh mẽ giữa xã hội và kinh tế, nổi bật nhất là ở châu Âu vào đầu thế kỷ 20. Chủ nghĩa phát xít thường đi kèm với sự bạo lực và áp bức nhằm duy trì và mở rộng quyền lực của nhóm hoặc người lãnh đạo đó. Số đông trong đó, muốn đưa quốc gia lên trên về lịch sử, văn hóa, sinh học độc nhất, tất cả là nhờ vào động lực của lòng trung thành, và muốn tạo nên một cộng đồng chung của quốc gia được huy động.
Chủ nghĩa phát xít là hình thức chuyên chính của tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa, thể hiện tính chất tổ chức cũng như tinh thần hoạt động mạnh mẽ của các quốc gia theo chủ nghĩa phát xít. Ta có thể nhớ đến Đức, Ý, Nhật với sự tham gia, châm ngòi trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Rất nhiều đặc điểm được quy cho chủ nghĩa phát xít bởi nhiều học giả khác nhau, nhưng những yếu tố sau thường được xem như cấu thành: chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa độc tài quân sự, chủ nghĩa quân phiệt, chủ nghĩa chống cộng, chủ nghĩa hợp tác, chủ nghĩa toàn trị, chủ nghĩa chuyên chế[5], chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chống lại chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa Cộng sản.
Có rất nhiều tranh cãi giữa các học giả về bản chất của chủ nghĩa phát xít và những loại phong trào chính trị và những chính phủ mà có thể bị gọi là phát xít. Trên thực tế chủ nghĩa phát xít ở Ý, nơi khởi đầu của nó, khác với ở Đức, hay “chủ nghĩa phát xít” ở Nhật, ở Tây Ban Nha, và một số nơi khác, và cũng như các phong trào phát xít mới phát triển ở châu Âu hiện nay, xem xét các khía cạnh kinh tế, thủ thuật giành chính quyền, cương lĩnh, tư tưởng, mô hình nhà nước,… nhưng có điểm chung là gắn với tinh thần dân tộc.
Phát xít có nguồn gốc chính thức tại Ý, còn có tên gọi là Fasium. Lúc đầu tổ chức này chỉ có ba người, mỗi người phải đi tuyên truyền chủ nghĩa này cho ba người khác và lại tiếp tục như vậy, nên cả tổ chức trở nên lớn mạnh. Đặc biệt người được tuyên truyền sau không biết mặt những người lãnh đạo lớn hơn mình.
Biểu tượng của chủ nghĩa phát xít
Lịch sử không hề có một biểu tượng chính thức cho chủ nghĩa phát xít, tuy nhiên biểu tượng chữ “Vạn” (Swastika) màu đen trên cờ Đức Quốc Xã vẫn có thể coi là đại diện cho toàn bộ chủ nghĩa phát xít. Năm 1920, cờ của phát xít Đức ra đời với thiết kế lá cờ có nền đỏ, một vòng tròn trắng và ở giữa là chữ “Vạn” (Swastika) màu đen.
Nhiều người cho rằng chữ “Vạn” trên cờ của Đức Quốc xã là chữ “Vạn” trong Phật giáo. Thực chất 2 biểu tượng này không hề có sự liên quan đến nhau.
Chữ “Vạn” ở cờ phát xít Đức có nguồn gốc từ chữ Vạn (Swastika) của người Aryan. Theo Hitler, người Aryan cổ xưa là một dân tộc hiếu chiến, thượng đẳng và Hitler khẳng định rằng dân tộc Đức có nguồn gốc từ tộc người này.
Chính vì vậy biểu tượng của người Aryan là Swastika được chọn trở thành biểu tượng trong cờ phát xít Đức. Nó cũng trở thành biểu tượng của sự thống trị độc tài, tàn bạo của phát xít Đức nói riêng và chủ nghĩa phát xít nói chung.
Nguồn gốc tên gọi chủ nghĩa phát xít
Chủ nghĩa phát xít có nguồn gốc từ Fasces (tiếng Latinh), Fascismo (tiếng Ý), Fasciste (tiếng Pháp), Fascist (tiếng Anh), có nghĩa là bó hoặc nhóm.
Câu chuyện bắt đầu từ thời Servius Tullius (578-535 BC), vua (Rex) thứ sáu của La Mã cổ. Servius gả con gái của mình cho con của hoàng đế thứ 5, Tarquinius. Tuy nhiên cô con gái của Servius là một người vô cùng tham lam và không coi trọng bất cứ một nguyên tắc đạo đức nào. Chính cô này đã xui Tarquinius xông vào Viện Nguyên Lão để cướp ngôi của cha mình và đuổi cha mình ra khỏi ngai vàng.
Tệ hơn, Servius đã bị giết bởi một nhóm người theo lệnh của Tarquinius khi trở về cung. Sau khi lên ngôi, Tarquinius làm đủ mọi chuyện ác gây phẫn nộ trong dân chúng. Cuối cùng, người con trai của nhà buôn từng bị Tarquinius giết chết đã kêu gọi nhân dân nổi dậy và giành lại quyền điều hành đất nước. Sau sự vụ này, Rome không còn ngôi vua nữa mà nhân dân bầu ra hai người đứng đầu gọi là Quan chấp chính. Vị quan chấp chính thường có các thị vệ (vệ sĩ) theo hầu, mỗi thị vệ vác theo mình một bó gậy (là một bó gồm nhiều que gỗ), giữa bó gậy được buộc chặt với một cái rìu dùng để trừng phạt những người làm sai pháp luật bằng các hình phạt thể xác và tử hình.
Tuy nhiên, đây là một mô hình cực kỳ dân chủ và văn minh so với các mô hình ở thời cổ đại bởi có hai vị Quan chấp chính có quyền hành ngang nhau, thời gian chấp chính chỉ là 1 năm và nếu người dân có ý kiến bất đồng với Quan chấp chính thì có thể đưa ra Hội đồng Nhân dân hoặc Viện nguyên lão. Bó gậy mà người thị vệ vác theo mình được gọi là Fasces.
Ý nghĩa tượng trưng của bó que là sức mạnh thông qua sự thống nhất: một que gỗ thì dễ dàng bị bẻ gãy nhưng một bó gỗ thì rất khó để bẻ gãy. Từ đó các biểu tượng tương tự đã được các phong trào phát xít khác mô phỏng theo.
Ví dụ như biểu tượng bó tên của Đảng phát xít Falange Tây Ban Nha. Biểu tượng bó gậy cũng có thể là
- Biểu trưng cho vương quyền hay luật pháp của giai cấp thống trị.
- Tượng trưng cho quyền lực của nhân vật đứng đầu Nhà nước.
- Biểu tượng của chính quyền hành chính nhân dân. Ví dụ con dấu của Thượng nghị viện Hoa Kỳ vẫn còn sử dụng biểu tượng bó gậy để làm hình đại diện cho luật pháp của riêng Viện này. Từ Fascismo cũng được dùng để chỉ các tổ chức chính trị tại Ý như fasci, tương tự với công đoàn và phường hội.
Đặc điểm của chủ nghĩa phát xít
Có một số đặc điểm chung của chủ nghĩa phát xít, nhưng cần lưu ý rằng không phải tất cả các chủ nghĩa phát xít đều có đầy đủ các đặc điểm này:
- Chủ quyền dân tộc: Chủ nghĩa phát xít thường coi dân tộc của mình là trọng tâm và ưu tiên hàng đầu. Họ có xu hướng tuyên bố sự ưu ái và đặc quyền cho dân tộc của mình so với những người khác, thường đi kèm với sự phân biệt chủng tộc và kỳ thị người ngoại quốc.
- Quyền lực tuyệt đối: Chủ nghĩa phát xít thường theo đuổi mục tiêu của mình thông qua quyền lực tuyệt đối và áp bức. Họ tìm cách giành quyền kiểm soát toàn diện và trực tiếp trong chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa.
- Nhà lãnh đạo mạnh mẽ: Chủ nghĩa phát xít thường có sự tôn trọng và sùng bái một nhà lãnh đạo mạnh mẽ và độc tài, người được coi là tấm gương cho dân tộc và quốc gia. Nhà lãnh đạo này thường được tôn thờ và không được đặt dưới sự tranh cãi hoặc phê phán.
- Phương pháp bạo lực và áp bức: Chủ nghĩa phát xít thường sử dụng phương pháp bạo lực và áp bức để đạt được mục tiêu chính trị của mình. Điều này có thể bao gồm việc sử dụng quân đội, cảnh sát và các tổ chức bảo vệ để đàn áp những ý kiến trái ngược và đối đầu với bất kỳ sự phản kháng nào.
- Sự chống đối với đa nguyên và dân chủ: Chủ nghĩa phát xít thường chống đối đa nguyên và các nguyên tắc dân chủ. Họ thường tuyên bố rằng chỉ một nhóm nhất định hoặc một cá nhân đáng tin cậy mới có thể đảm bảo sự ổn định và phát triển của xã hội.
- Sự xén phân và sự kỳ thị: Chủ nghĩa phát xít thường khuyến khích sự phân biệt và kỳ thị dựa trên dân tộc, chủng tộc, tôn giáo hoặc các yếu tố khác. Điều này có thể gây ra sự phân cách và đối xử bất công đối với các nhóm khác nhau trong xã hội.
Nguyên nhân ra đời của chủ nghĩa phát xít
Sau khi tìm hiểu rõ khái niệm chủ nghĩa phát xít và những đặc điểm của nó thì ta sẽ tìm hiểu về những nguyên nhân ra đời của chủ nghĩa phát xít. Nguyên nhân này dẫn đến sự hình thành các tư, tưởng, giúp làm lớn mạnh chủ nghĩa phát xít.
Có những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa phát xít như sau:
- Khủng hoảng kinh tế và xã hội sau Thế chiến thứ nhất: Sau Thế chiến thứ nhất, các nước châu Âu đối mặt với tình trạng khủng hoảng kinh tế và xã hội nghiêm trọng. Tình hình này tạo ra một môi trường mà chủ nghĩa phát xít có thể tìm thấy sự ủng hộ từ những người dân gặp khó khăn và không hài lòng với chính sách cũ.
- Sự thất bại của các hệ thống chính trị truyền thống: Các hệ thống chính trị truyền thống như chế độ quân chủ và chế độ cộng sản không thể đáp ứng được nhu cầu và mong muốn của một số lớn người dân. Chủ nghĩa phát xít đã tận dụng được sự thất bại này và đề xuất một giải pháp mới cho các vấn đề xã hội và chính trị.
- Đảm bảo sự ổn định và truyền thống: Chủ nghĩa phát xít hứa hẹn mang lại sự ổn định, truyền thống và đứng vững trước những thách thức hiện tại. Những lời hứa này đã thu hút sự ủng hộ từ những người dân mệt mỏi với sự bất ổn và thất bại của các hệ thống truyền thống.
- Sự gia tăng của quốc gia và chủ nghĩa dân tộc: Chủ nghĩa phát xít tận dụng sự gia tăng của quốc gia và chủ nghĩa dân tộc, khai thác cảm xúc và tình yêu quê hương của người dân. Họ tạo ra một tư tưởng chủ nghĩa dân tộc mạnh mẽ và khẳng định quyền lợi và đặc quyền của quốc gia mình.
- Lãnh đạo mạnh mẽ và tài năng: Một lãnh đạo mạnh mẽ, tài năng và khéo léo là yếu tố không thể thiếu để chủ nghĩa phát xít trỗi dậy. Các nhà lãnh đạo như Adolf Hitler ở Đức và Benito Mussolini ở Ý đã sử dụng khéo léo các chiến lược tuyên truyền và lừa dối công chúng để tăng cường quyền lực và ủng hộ cho phong trào của họ.
Tư tưởng chủ nghĩa phát xít
Là kết quả cuộc bạo loạn của giai cấp tiểu tư sản, do nó bị chèn ép giữa giới đại tư sản và phong trào công nhân. Vì vậy nó không mang tính chất giải phóng áp bức, bất công mà nó chỉ mang tính chất giúp giới tiểu tư sản dễ thở hơn trong cuộc đấu tranh của giới đại tư sản (bóc lột) và giai cấp công nhân (bị bóc lột) mà không sớm hay muộn giới tiểu tư sản sẽ bị lôi kéo nhảy vào cuộc.
Tuy nhiên nó không dừng lại ở tính chất của cuộc cách mạng tiểu tư sản, nó thể hiện ý thức phi lý của con người đã bị bóp méo, trở nên đần độn dẫn đến những tư tưởng ảo tưởng nhưng coi đó là sự thật và cần phải đấu tranh thực hiện nó. Nhà sử học người Italia, Dele Piane, gọi chủ nghĩa phát xít là “cuộc phản cách mạng triệt để”; còn L. Longo thì xem đó là “một trong những hình thái phản cách mạng triệt để”.
Hệ quả của chủ nghĩa phát xít
Hệ quả của chủ nghĩa phát xít đã có những tác động đáng kể đến thế giới và xã hội. Dưới đây là một số hệ quả chính của chủ nghĩa phát xít:
- Thế chiến thứ hai: Chủ nghĩa phát xít đã góp phần lớn vào sự bùng nổ của Thế chiến thứ hai. Việc xây dựng và mở rộng đế quốc của Đức Quốc xã và xâm lược của Nhật Bản đã dẫn đến cuộc chiến tranh toàn cầu, làm mất đi hàng triệu sinh mạng và gây ra những thiệt hại tàn khốc về kinh tế và cơ sở hạ tầng.
- Holocaust và tội ác chiến tranh: Chủ nghĩa phát xít đã thực hiện chính sách diệt chủng và tội ác chiến tranh trên quy mô hàng triệu người. Holocaust, chính sách hủy diệt người Do Thái của Đức Quốc xã, đã làm mất đi hàng triệu người vô tội. Ngoài ra, những tội ác chiến tranh khác như sát hại hàng ngàn người tàn tật, tội ác trong trại tù, và việc tấn công và tàn phá các thành phố cũng là hậu quả của chủ nghĩa phát xít.
- Sự phân chia và hủy hoại xã hội: Chủ nghĩa phát xít gây ra sự phân biệt chủng tộc, sự kỳ thị và phân biệt đối xử trên cơ sở dân tộc, tôn giáo và xuất xứ. Nó làm gia tăng sự căm thù và xung đột trong xã hội, gây ra sự chia rẽ và hủy hoại mối quan hệ giữa các cộng đồng và quốc gia.
- Sự tổ chức và kiểm soát tối đa: Chủ nghĩa phát xít tạo ra những chế độ độc đoán và quân chủ, trong đó nhà nước có quyền kiểm soát toàn bộ xã hội và người dân không được tự do tỏ ý kiến và tổ chức. Quyền tự do cá nhân, tự do ngôn luận và nhân quyền bị chặn đứng và bị bóc lột.
- Kết thúc của chủ nghĩa phát xít và hậu quả dài lâu: Chủ nghĩa phát xít đã bị đánh bại trong Thế chiến thứ hai, và những hậu quả kéo dài của nó vẫn còn đến ngày nay. Các cuộc chiến tranh, tàn phá và khủng bố liên quan đến chủ nghĩa cực đoan tiếp tục tồn tại và gây ảnh hưởng xấu đến nhiều nền kinh tế và xã hội trên thế giới.
Những hệ quả này đã làm cho chủ nghĩa phát xít trở thành một biểu tượng của sự tàn bạo, phân biệt và đe dọa đối với hòa bình và sự phát triển của nhân loại.
Các quốc gia thực hiện chủ nghĩa phát xít trong lịch sử
Có 3 nước phát xít lớn trên thế giới đó là Đức Quốc xã, Phát xít Ý và Đế quốc Nhật Bản. Đây là 3 quốc gia đã hình thành khối Trục – phe chống lại lực lượng Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai.
Các nước phát xít trong phe Trục đều có mục tiêu chung là bành trướng lãnh thổ bằng việc gây chiến tranh xâm lược trên toàn thế giới.
Đức Quốc xã
Đây là nước Đức trong thời kỳ 1933 – 1945 chịu dự kiểm soát độc tài của Adolf Hitler và Đảng Quốc xã (NSDAP). Đức biến đối trở thành một nhà nước phát xít toàn trị cai quản gần như mọi mặt của đời sống.
Bên cạnh sự tàn bạo, chuyên chế, một nét đặc trưng nổi bất khác của Đức Quốc xã đó là phân biệt chủng tộc, đặc biệt là bài Do Thái. Tất cả những dân tộc khác mà Quốc xã cho là “hạ đẳng” đều bị khủng bố và tàn sát dã man.
Phát xít Ý
Là thời kỳ nước Ý nằm dưới quyền thống trị của đảng Phát xít do Benito Mussolini lãnh đạo, từ năm 1922 đến 1943. Chính phủ độc tài của Mussolini giành hết quyền quản lý của quốc gia về đảng chính trị của ông và cấm hoạt động tất cả những đảng khác. Hàng ngàn người chống đối đều bị khủng bố, hãm hại và thủ tiêu bởi những cảnh sát mật vụ của Mussolini.
Có thể nói chủ nghĩa phát xít Ý được xem là hình mẫu cho các hình thức chủ nghĩa phát xít khác như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha hay Đức.
Đế quốc Nhật Bản
Một quốc gia dân tộc trong lịch sử Nhật Bản tồn tại từ cuộc cách mạng Minh Trị năm 1868 cho đến khi Hiến pháp Nhật Bản được ban hành vào năm 1947.
Nhật Bản đã nổi lên như một cường quốc sau quá trình công nghiệp hóa và quân phiệt hóa, sau đó, chủ nghĩa quân phiệt đã trỗi dậy trong tình hình kinh tế, chính trị đầy bất ổn trong những năm 1920. Đỉnh điểm cho việc chủ nghĩa phát xít nắm quyền ở Nhật Bản đó là khi Nhật Bản gia nhập phe Trục rồi và đi chinh phạt phần lớn vùng châu Á – Thái Bình Dương.
Phát xít Đức đã gây tội ác gì?
Một vào thông tin về chủ nghĩa phát xít Đức đã gây lên cuộc thế chiến thứ 2 như:
Bối cảnh ra đời
Đức trở thành nước thua trận sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, vì vậy Đức phải gánh chịu khoản bồi thường thiệt hại chiến tranh theo quy định trong Hòa ước Versailles năm 1919.
Điều này đã đưa đến sức ép rất lớn cho nền kinh tế Đức. Đặc biệt khi chính phủ in tiền để trả nợ cho đất nước, nước Đức đã lâm vào khủng hoảng chưa từng có: siêu lạm phát khiến giá cả tăng cao, vấn đề lương thực dẫn đến nhiều cuộc bạo động, nạn thất nghiệp ngày càng tồi tệ.
Ngay lúc này, sự kiện thị trường chứng khoán ở Mỹ sụp đổ vào ngày 24 tháng 10 năm 1929 kéo theo cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 càng khiến nước Đức trở nên bất ổn và hỗn loạn hơn bao giờ hết.
Tình trạng căng thẳng cùng sự bất lực của chính Đảng đã khiến người dân ngày càng bất mãn. Lợi dụng thời cơ này, Đảng Quốc xã và Hitler đã đưa ra những lời hứa hẹn về một chính quyền mạnh mẽ, giúp nước Đức vượt qua thời kì khó khăn và biến Đức trở thành một cường quốc.
Chính vì vậy, Đảng Quốc xã đã chiếm được lòng tin của ngời dân, trở thành đảng nắm quyền kế tục thay cho Đảng Công dân Đức. Với sự kiện Hitler được bổ nhiệm làm Thủ tướng Đức vào ngày 30 tháng 1 năm 1933, chủ nghĩa phát xít đã thực sự lên nắm quyền tại Đức.
Tội ác của chủ nghĩa phát xít Đức
Nếu tìm hiểu vì sao chủ nghĩa phát xít thắng thế ở Đức, bạn sẽ hiểu vì sao phát xít Đức nổi tiếng với sự tàn bạo và độc tài, gây ra rất nhiều tội ác cho toàn nhân loại. Trong đó chúng ta có thể kể đến việc châm ngòi cho Thế chiến II.
Tháng 9 năm 1939, phát xít Đức dưới sự lãnh đạo của Hitler đã tiến hành xâm lược Ba Lan. Cuộc xâm lược này đã khiến Anh và Pháp tuyên chiến với Đức theo hiệp ước 2 nước này đã ký kết với Ba Lan. Đây chính là sự kiện mở đầu cho cuộc chiến tranh đẫm máu với cái chết của hơn 70 triệu người trong lịch sử.
Một tội ác khác của phát xít Đức mà nhân loại không thể nào quên đó là tội ác diệt chủng. Trong giai đoạn từ năm 1941 đến năm 1945, người Do Thái cùng nhiều nạn nhân khác đã bị sát hại bởi Đức Quốc xã.
Họ bị bắt đến các trại tập trung, bị tra tấn dã man rồi bị thủ tiêu bằng nhiều phương thức tàn bạo như dùng súng hay dùng thuốc độc.
Trong đó cuộc thảm sát có quy mô nhất chính là Holocaust dẫn tới cái chết của khoảng 6 triệu người Do Thái.
Sự sụp đổ của chủ nghĩa phát xít ở Đức
Giai đoạn cuối năm 1942 – đầu năm 1943, Thế chiến II chứng kiến sự thắng lợi liên tiếp của Hồng quân Liên Xô trên các chiến trường. Đến cuối năm 1943, Đức Quốc Xã đã đánh mất phần lớn lãnh thổ ở phía đông mà trước đó đã xâm chiếm được.
Phát xít Đức phải hứng chịu liên tiếp những thất bại từ các cuộc tấn công của Đồng Minh, khiến bộ máy chiến tranh của chúng gần như tê liệt vào cuối năm 1944. Tiếng nói của Hitler không có sức ảnh hưởng.
Ngày 30 tháng 4 năm 1945, Hitler và vợ đã tự sát trong Führerbunker ngay khi Hồng quân Liên Xô tiến gần Phủ Thủ tướng tại thủ đô Berlin. Trong khoảng từ ngày 4 đến 8 tháng 5 hầu hết quân lính có vũ trang còn lại của Đức đều đầu hàng vô điều kiện.
Chiến tranh thế giới thứ 2 chính thức kết thúc bằng văn kiện đầu hàng của Đức vào ngày 7 tháng 5 năm 1945. Đây cũng chính là sự kiện đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa phát xít ở Đức.
Chủ nghĩa phát xít nói chung và chủ nghĩa phát xít ở Đức nói riêng đều đã gây ra nhiều tội ác cho nhân loại bằng sự độc tài, tàn bạo của chúng.
Trên đây là thông tin về chủ nghĩa phát xít là gì mà Du học Aloha đã tổng hợp và gửi tới bạn đọc. Hy vọng qua nội dung trên bạn có thể hiểu lý do tại sao tư tưởng này thất bại.
Có thể bạn quan tâm: